Thứ Hai, 1 tháng 8, 2011

Chương 13 - Ông Tề Thiên

“Tụi mày thấy tao mua cái xe này có ích chưa?”, giọng Khang vang lên trong tiếng bôm bốp của cơn mưa tầm tã rơi trên mái chiếc xe ngựa.

Đó là một cơn mưa lớn không thua gì những cơn mưa ở huyện Vĩnh Linh; mưa đổ ào ào như trút nước, mưa bay tối tăm trời đất. May mắn có chiếc xe, cả bốn chúng tôi ngồi co ro trong đó. Phía trước, ba con ngựa tội nghiệp đang nhấc từng bước khó khăn kéo chiếc xe trên một con dốc dài lớp nhớp bùn đất; chúng tôi đã leo con đèo Cả này cả sáng nay rồi.

“Có ích cái gì? Leo đèo mà còn phải kéo theo cái xe của nợ này thì đến khi nào mới tới!”, Hoàng lằm bằm bất mãn.

Khang liếc nhìn Hoàng một cách khó chịu, rồi nó không nói gì nữa và ngồi im ôm Bơ trong lòng.

Trông Bơ thật tàn tạ. Sự hồn nhiên, vui vẻ như lúc rời Hà Bạc đã không còn trên mặt nó. Cả ngày không nói gì, nó ngồi bần thần, mệt mỏi. Tay cầm một miếng gỗ là lạ đưa trước mặt, nhưng ánh mắt nó đang nhìn vô một góc nào đó tối tăm, giơ dáy trong cỗ xe.

Muốn nói chuyện động viên Bơ, Khang chỉ miếng gỗ lạ và hỏi, “Cái gì vậy Bơ? Đồ chơi của Bơ hả?”

Mặt buồn thiu, Bơ không trả lời mà đưa Khang miếng gỗ, rồi nó quàng tay ôm mình ủ ấm trong cái lạnh sâu thẳm trong lòng.

Khang cầm miếng gỗ xem xét, “Hình như là một bức tranh. Nhưng tranh gì mà lạ vậy?”, nó giơ miếng gỗ lên cho tôi và Hoàng cùng thấy.

Hoàng liếc một cái rồi nói, “À, cái trò xếp hình do người Chăm chế á mà. Có một lỗ trống cho mày di chuyển mấy mảnh vuông nhỏ để xếp thành một hình gì đó.”

Tỏ vẻ thích thú, tôi với tay nói, “Cho tao mượn coi thử?”

Nhận lấy miếng xếp hình, tôi săm soi tìm hiểu nó. Miếng gỗ hình vuông, rộng cỡ một gang tay, gồm nhiều mảnh ghép hình vuông nhỏ hơn với bề mặt có hình vẽ màu mè; duy ở góc bên trái thì trống, đúng như Hoàng nói. Các mảnh nhỏ này lúc đầu ghép nên một bức tranh nhưng giờ bị xáo trộn, nhìn chả ra tranh gì. Lật mặt sau, các mảnh nhỏ mang đầy vết mực và cũng vì bị xáo trôn nên nhìn chả hiểu là hình gì.

“Đằng sau cũng có hình hả?”, tôi kéo tay Hoàng hỏi.

Hoàng dòm một hồi rồi nói, “Thường thì có hình ở mặt trước đủ rồi. Mặt sau có vết mực chắc do ai đó quẹt bậy quẹt bạ gì lên thôi!”

Tôi đưa trả miếng gỗ lại cho Bơ nhưng nó đã ngủ gục từ lúc nào. Khang ngồi lắc lư, ru Bơ trên đùi. Hoàng lặng lẽ nhìn cơn mưa tầm tã bên ngoài vẫn rơi lạnh lẽo. Không có việc gì làm, tôi bèn mày mò chơi trò xếp hình của Bơ.

Đến chiều tối thì chúng tôi lên tới đỉnh đèo và trời cũng tạnh mưa.

Trong khi Hoàng vỗ về ba con ngựa tội nghiệp đã mệt nhoài vì leo đèo cả ngày, đút từng cọng cỏ cho chúng ăn, thì tôi và Khang nhóm lửa sưởi ấm và chuẩn bị bữa tối.

Mở cái gói nhỏ mà chị Phương đưa chúng tôi trước khi đi, Khang lôi ra một nắm cơm ố vàng, lọc kĩ các hạt sạn và thóc khô rồi trộn với một loại lá như lá chanh trên một tấm lá chuối

“Lá này hay lắm. Mày giã nhỏ, đun lên rồi trộn ăn với cơm sẽ có vị ngon tuyệt cú mèo…”, nó giảng giải cho tôi và Bơ đang ngồi theo dõi.

“…Nhưng rất tiếc, mày sẽ không được nếm nó vì chị Phương chỉ cho mình đủ cơm cho Bơ ăn tối nay và ngày mai thôi!”, nó nói rồi cẩn thận đưa tấm lá chuối có nắm cơm nho nhỏ cho Bơ ăn.

Thấy tôi nuốt nước miếng tiếc nuối, Bơ xòe tấm lá chuối trước mặt tôi, lí nhí hỏi, “Anh Giang ăn chung với Bơ không?”

Ôi, Bơ làm tôi ngượng quá, tôi nỡ nào dành ăn với một đứa trẻ!

“Không, anh không đói. Bơ ăn hết đi!”

“Đừng lo! Mai xuống đèo thế nào cũng có nhà dân, mình sẽ vô xin chút cơm”, Khang vỗ vai tôi động viên rồi nhảy lên bám lấy một cành cây trên đầu tập hít xà.

Tôi quay sang chỗ bầy ngựa thì thấy chúng đã có vẻ khỏe hơn và đang đứng quây quần với nhau, nhưng Hoàng thì đã đi đâu mất; chắc nó lại đang đi dạo vòng vòng, đang ưu tư phiền muộn một mình.

Ngồi bệt xuống mặt đất lầy lội, tôi lôi miếng xếp hình ra tiếp tục chơi trong khi Bơ ngồi bên thành xe nhóp nhép ăn nắm cơm nho nhỏ.

Thật là lạ, đường xuống đèo xa hơn đường lên đèo rất nhiều. À mà thật ra tôi nói “đường xuống đèo” cũng không đúng lắm, vì trong đoạn đường này cũng có lúc chúng tôi phải leo đèo, nhưng những con đèo này không cao và khó như con đèo đầu tiên mà chúng tôi leo; có lẽ vì vậy mà tôi gọi nó là “đường xuống đèo”. Trời lâu lâu có những cơn mưa phùn nhưng không nhiều, còn lại thì nắng nóng và oi bức như lúc ở Hà Bạc. Dọc đường, thỉnh thoảng chúng tôi gặp được một vài căn nhà tồi tàn của dân tiều phu mà nhờ đó xin được chút ít lương thực cầm cự. Nhìn chung, những ngày đi đường sau đó tương đối nhẹ nhàng.

Bơ càng lúc càng trở nên ít nói. Nếu như hồi trước thấy bất cứ thứ gì, từ những cây cối, nhà cửa, sông núi, cho tới những truyền thuyết, lịch sử của các cây cối, nhà cửa, sông núi đó, nó đều hỏi thì bây giờ nó chẳng quan tâm nữa. Vì thế để mua vui cho nó, và bản thân cũng thực sự muốn tìm hiểu, tôi đã thay thế Bơ, trở thành người hay hỏi Khang về tất cả những chuyện trên thế gian này; và Khang luôn hào hứng trả lời tôi. Hoàng vẫn lầm lì như mọi khi, mặc dù lâu lâu nó cũng chen vào sửa hay bổ sung cho những câu chuyện lịch sử của Khang (Hoàng biết nhiều chuyện lịch sử thật), nhưng phần lớn thời gian nó chỉ im lặng và đến tối lại lặng lẽ đi đâu đó một mình.

Đó là buổi tối thứ tư kể từ ngày chúng tôi bắt đầu leo đèo Cả.

Trong khi Khang ngồi tắm cho Bơ, tôi và Hoàng ngồi nhóm lửa nấu ăn và hơ khô những bộ quần áo ướt.

“Ủa giấy gì vậy?”, thấy Hoàng đang chăm chú đọc một tờ giấy quen quen, tôi liền hỏi.

Nó giơ tờ giấy lên cho tôi xem và nói, “Tờ truy nã mày! Tao tìm thấy nó trong túi áo Bơ.”

Đúng là tờ truy nã tôi rồi; với chữ truy nã và các tội danh to đùng bên trên, bên dưới là một tấm chân dung mà đến tôi cũng phải bực mình là nó không giống chút xíu nào.

Mặc xong quần áo cho Bơ, Khang bế nó ra sau lưng Hoàng và chỉ tờ giấy hỏi, “Đố Bơ cái hình trên tờ giấy là hình của ai?”

Bơ nhìn một lúc rồi khe khẽ trả lời, “Hình ông Tề Thiên hả anh Khang?”

Bất ngờ, Khang bật cười sặc sụa. Hoàng không phát ra tiếng gì nhưng tôi nghi nó cũng đang cười trong đầu. Còn tôi thì nửa muốn cười, nửa muốn khóc khi thấy mình đẹp trai thế này mà bị vẽ như con khỉ, đến nỗi con nít nó lộn là ông Tề Thiên!

Cố nín cười, Khang giật lấy tờ truy nã và hứng khởi nói, “Đây là hình của anh Giang đó Bơ, có ghi ở đây nè. Để anh dạy Bơ đọc chữ Giang Cu nhé!”

Dù cho không khí trở nên vui vẻ bởi tiếng cười của Khang, mặt Bơ vẫn vô thần. Rất kiệm lời, nó chỉ khẽ gật đầu trước lời đề nghị của Khang mà không có vẻ hân hoan gì cả.

Cố không quan tâm đến sắc mặt của Bơ, Khang sực nhớ ra chuyện gì đó và nhìn tôi cười hỏi, “Giang mày biết đọc không?”

“Mẹ, sĩ tao hả, hồi ở Hà Bạc cũng hỏi câu y chang!”, tôi nổi quạu với nó.

Lúng túng, Khang biện minh, “Ế đừng hiểu lầm! Tao cũng chỉ muốn khoe là tao biết đọc thôi… Dân giang hồ như mình kiếm đâu ra thằng biết chữ chớ!”

Ừ, thằng Khang nói tôi mới nhận ra, đời này đâu có lắm người biết chữ. Những thằng bạn hồi xưa của tôi như thằng Kim, thằng Võn, thằng Ti Hô, hay hầu như tất cả những người dân ở huyện Vĩnh Linh đều không biết chữ. Gia đình tôi cũng bình thường như bao nhà khác và anh em tôi cũng sẽ mù chữ bình thường như bao người nếu không có ông ngoại. Ba mẹ mất sớm nên anh em tôi được ông nuôi từ nhỏ. Vì hồi trước là một thầy đồ nên ông có cái nhìn rộng lớn, thấu hiểu về thế gian. Mặc dù nhà nghèo, phải làm việc kiếm ăn cả ngày nhưng đến tối ông vẫn bắt anh em tôi học chữ. Lúc đầu tôi chả khoái cái trò học chữ này chút nào, khi các thằng bạn của tôi đi thả đèn, chọi gà, bắt dế, thì tôi phải ngồi nhà học bài, nhưng rồi sau này tôi mới thấy nó có lợi, khi lâu lâu có người lại tới nhờ anh em tôi đọc chữ, viết chữ, rồi anh em tôi dễ tiếp chuyện hơn với các nhà buôn, những người rất quan trọng sổ sách; và cuối cùng anh em tôi được làm thuê cho lão bá vì là hai thằng duy nhất biết chữ; tất cả là nhờ ông… Ông mất khi tôi mười hai tuổi.

Nghe xong câu chuyện ấu thơ nho nhỏ vừa rồi của tôi, Khang cười, “Mày may mắn có ông dạy chữ từ nhỏ. Còn tao từ nhỏ còn không biết là trên đời này tồn tại cái thứ gọi là ‘chữ viết’! Thế mà bây giờ tao biết chữ rồi đó, mày biết nhờ ai không?”

Tôi lắc đầu, tò mò và hứng thú.

“Thằng Hoàng dạy tao đó!”, Khang tự hào chỉ Hoàng giới thiệu.

Được Khang khen nhưng Hoàng không vui gì cả. Nó chỉ lừ lừ nhìn Khang rồi nói, “Mệt mày quá! Khỏi khoe đi!”

Nhưng Khang vẫn khống chế, “Tao ngưỡng mộ mày thật mà! Mày còn biết cả chữ Hán, chữ Nho. Mày đọc được rất nhiều sách!”

Hoàng trở nên cáu gắt hơn, nó lớn tiếng nói, “Đọc được nhiều sách thì có ích gì! Học văn lắm cũng chỉ vô dụng, chả giúp được mình mạnh mẽ hơn cái khỉ gì mà còn khiến mình càng trở nên yếu ớt vì cứ bỏ thời gian ra mà đọc nó.”

Bị Hoàng bất ngờ la, Khang tự ái và bắt đầu to tiếng lại, “Có văn trong tay mà mày không cần! Vậy chứ mày cần cái gì?”

Ánh nhìn căm phẫn và uất ức, Hoàng hét, “CÁI MÌNH CẦN LÀ CÓ VÕ! LUẬT ĐỜI LÀ VẬY: CÓ VĂN MÀ KHÔNG CÓ VÕ THÌ CHỈ NHU NHƯỢC!”

Rồi nó tức giận bỏ đi. Khang lắc đầu, nhìn tôi chần chừ một hồi rồi quay lại dạy đánh vần những dòng chữ trên tờ truy nã cho Bơ, vốn dĩ chả hiểu chuyện gì xảy ra nãy giờ.

Ngày hôm sau chúng tôi tiếp tục lên đường và đến chiều thì xuống tới đồng bằng; vậy là chúng tôi đã mất gần năm ngày mới vượt qua được đèo Cả.

BỐP! Sau một hồi loay hoay, cuối cùng Khang cũng đập được con muỗi nãy giờ vẫn lởn vởn quanh cổ nó rồi hứng chí xòe bàn tay ra khoe, “Sắp tới xứ Nẫu[1] rồi đó. Chỉ có muỗi xứ Nẫu mới to và ranh thế này!”

Chúng tôi tiếp tục đi đến khi mặt trời vừa khuất bóng thì gặp một xóm nhỏ. Trong xóm chỉ lưa thưa bốn, năm căn nhà đất thấp bé nằm hai bên đường. Ngôi nhà thứ nhất trống vắng và tối đen không bóng người, nhưng đến ngôi nhà thứ hai thì chúng tôi thấy trước sân có một người đàn ông và một người đàn bà đang trò chuyện vui vẻ, thu dọn những cái giá to kẹp những vật gì đó màu trắng, tròn và mỏng.

“Họ đang làm gì vậy?”, tôi tò mò hỏi Khang.

Khang toét miệng trả lời, “Ở đây nổi tiếng có nghề làm bánh tráng đấy! Ban ngày họ đem bánh ra phơi, đến tối thì họ dọn cất vào trong nhà”, rồi ân cần hỏi Bơ, “Bơ ăn bánh tráng không, anh lại mua nhé?”. Bơ im lặng gật đầu.

Tôi cười thầm trong đầu với vốn kiến thức vừa biết được. Thì ra đó là bánh tráng. Hồi trước tôi từng thấy lão bá ăn, nhưng đến bây giờ mới biết được bánh xuất xứ ở đâu.

“Cho hỏi có phải thẳng đường này tới thành Phú Yên không?”, Khang cất tiếng hỏi, cắt ngang cuộc trò chuyện của hai người dân.

Người đàn bà nhỏ thó nhe hàm răng đen đúa cười trả lời chúng tôi, “Đúng rồi đó! Nhưng tối rồi mấy cậu dừng nghỉ lại đây đi, tụi tui vừa phơi xong vựa bánh ngon lắm!”

Nhận thấy sự vui vẻ và thân thiện của người đàn bà, chúng tôi hứng khởi xuống ngựa tới bắt chuyện.

“Một chồng bánh bao nhiêu vậy chị?”, Khang hỏi.

“Một chồng hai chục cái. Chị lấy một thúng gạo!”, người đàn bà trả lời và bất ngờ thảy một chồng bánh vào lòng tôi cho tôi kiểm tra.

“Tụi em không có gạo, chị lấy tiền nhé!”, Khang nói rồi móc một xâu tiền trong túi ra.

Nhìn thấy xâu tiền, người đàn bà la thất thanh, “Tiền kẽm na ông[2]? Chị không lấy đâu.”

Khang lúng túng giải bày, “Thú thật tụi em không còn thứ gì để đổi nữa!”

Người đàn ông nãy giờ đứng yên lặng bỗng lên tiếng, “Tui thấy vày nè. Mấy cậu tới thành Phú Yên cũng không thể kéo theo cái xe kia qua sông. Thế nên như vày: thằng em tui lái đò, mấy cậu đưa tui cỗ xe ngựa với hai quan tiền, tui đưa lại mấy cậu một chồng bánh rồi mai thằng em tui đưa mấy cậu qua sông, ba con ngựa luôn, nó có thuyền chở ngựa.”

Mặt anh gầy guộc, da thủng lổ chổ như mặt rổ, môi thì khô nứt nẻ; nhưng cũng như người đàn bà, cái nhìn và nụ cười của anh thật thân thiện và nồng ấm.

Khang quay sang nhìn chúng tôi và nhận được cái gật đầu của Hoàng; tôi thì mù tịt, có biết gì đâu mà gật đầu.

“Được!”, Khang cười nói với người đàn ông và hai người bắt tay nhau, nhưng dường như cái bắt tay này không chỉ đơn giản là hồi kết cho một cuộc bán đổi mà là mở đầu cho tình bằng hữu, tính tương thân tương trợ của người với người trên dòng đời run rủi này.

Tối đó chúng tôi được người đàn ông mời nhậu một bữa. Khang vẫn luôn là thằng hoạt bát, dễ hòa đồng nên nó ngồi đấu rượu với anh như bạn tri kỷ, trong khi tôi và Hoàng ngồi thưởng thức món bánh tráng chấm nước mắm. Chị hàng xóm lúc nãy lâu lâu cũng chạy sang tán chuyện với chúng tôi và Bơ. Càng về khuya trời càng mát mẻ và không biết từ lúc nào tôi đã ngủ khì.

Sáng hôm sau, người đàn ông dẫn chúng tôi ra bờ sông.

“Giang và Bơ nhìn nè: đây là sông Ba hay sông Đà[3] gì đó, phía bên kia bờ chính là thành Phú Yên đó!”, Khang giới thiệu.



[1] Từ dân dã để chỉ xứ Bình Định, Phú Yên

[2] Năm 1746, Chúa Nguyễn Phúc Khoát đúc loại tiền Thiên Minh Thông Bảo, pha nhiều kẽm xanh, vành mỏng, có thể bẻ gãy, nên dân chúng chê xấu, không chịu dùng

[3] Là sông Đà Rằng, chảy trên địa bàn ba tỉnh Kon Tum, Gia Lai, và Phú Yên

Không có nhận xét nào: