Tiếng người hò hét hòa vào tiếng ngựa hí trải vang trên con đường đất chạy dài giữa cánh đồng cỏ.
“Nhanh hơn nữa, anh hai!” tôi vừa hét vừa bám chặt vào thành xe để khỏi mất thăng bằng.
Anh tôi ngồi bên cạnh cầm cương giật liên tục điều khiển con ngựa già, miệng la khan khản, “HÍ DA, HÍ DA…!”
Chạy song song đua với chúng tôi là xe ngựa của thằng Võn và thằng Kim; tụi nó cũng đang la hét om sòm con ngựa của tụi nó. Thằng Võn mặc dù đang lo lái xe nhưng lâu lâu lại quay sang liếc tôi một cách rất đáng ghét rồi hỏi, “Mày đã bao giờ đánh xe từ đây xuống phủ Gia Định chưa Giang?”
“Chưa!”, tôi đáp gọn lỏn.
“Thế thì thua anh dzồi!”, thằng Võn cười ha hả; nó vẫn cứ khoái trêu tức người khác như thế.
Tức mình, tôi không thèm để ý tụi nó nữa mà tập trung vào đoạn đường trước mặt và thầm nghĩ, “Sắp tới đích rồi”
Chẳng mấy chốc thì xuất hiện trước mặt chúng tôi là một cái cọc gỗ với một miếng vải đỏ cột trên nó được cắm ngay giữa đường. Xe chúng tôi đang chạy nhích hơn xe tụi thằng Võn một khúc. Hứng khởi, tôi nhoài người ra thành xe, với tay hết cỡ chuẩn bị tóm cái cọc. Bên kia, thằng Kim cũng nhoài người chuẩn bị giành cái cọc với tôi. Nhưng nó tụt phía sau một đoạn nên tôi cười tươi, chắc mẩm mình sẽ thắng.
Cái cọc chạy tới tầm với tay của tôi, tôi xòe tay chuẩn bị bắt lấy nó. Đúng lúc đó thì thằng Kim nhảy từ xe nó tới chộp cái cọc. Bất ngờ, tôi bị nó húc nhào ra khỏi xe. Hai thằng lăn lộn trên con đường đất, bụi bốc lên dày đặc.
Tôi đang ê ẩm cả mình thì thấy thằng Kim đã đứng vụt dậy, nhảy lên mừng rỡ “Tao vớ được cái cọc! Tụi mình thắng rồi Võn ơi!”
Nhìn nó nhí nhảnh vậy, tôi cũng bật cười, “Địt mẹ mày chơi liều! Lỡ lúc nãy ngã trúng bánh xe thì chết mẹ tao rồi!”
Anh tôi và thằng Võn vòng xe lại. Thằng Võn há toác miệng, chỉ tay vô mặt tôi cười lớn “Vậy là hôm nay Bắc Hà[1] chăn lợn tụi mày nợ Nam Hà[2] tụi tao bảy bó củi nhá!”
Bực mình, tôi hét toáng lên, “Cái gì mà tụi tao là Bắc Hà chăn lợn?!”
“Thua thì làm giặc thôi!”, thằng Võn rống với lại trong khi chiếc xe chở nó và thằng Kim đi xa dần về một con đường khác.
Trời đã tối nhưng tôi và anh tôi vẫn đứng trước sân chẻ củi. Mồ hôi đầm đìa lộ rõ sự mệt mỏi nhưng anh vẫn mỉm cười hiền từ, “Vừa chở hàng vừa đua xe cũng vui nhỉ!”
Chống rìu xuống đất, tôi đưa tay quệt trán hậm hực nói, “Nhưng tụi nó dám gọi mình là Bắc Hà, bực ghê!”
Anh buông rìu, ngước nhìn tôi hỏi, “Giang ghét Bắc Hà vậy sao?”
“Giang ghét bị gọi là người Bắc Hà. Giang có sinh ra ở Bắc Hà đâu!”
Anh cười, “Giang đừng quên ông cố mình hồi xưa từng ở Bắc Hà rồi theo Chúa Hiền vào Nam[3]”
Hơi tỏ vẻ xấu hổ, tôi vác cái rìu lên và tiếp tục chẻ củi rồi lí nhí đáp, “Đó là chuyện hồi xửa hồi xưa. Còn bây giờ Giang sinh ra ở Nam Hà thì Giang là người Nam Hà”
Rồi không nói gì nữa, tôi cắm cúi chẻ củi không dám nhìn anh, biết rằng mình đã nói những lời không phải.
Một khoảng thời gian im lặng trôi qua với độc nhất tiếng chẻ củi của tôi; hình như anh đang đứng suy nghĩ về một thứ gì đó.
Bất ngờ anh nói, “Anh sẽ đi vào giờ dần[4] sáng mai”
Dừng chẻ củi, tôi nhìn sang anh hỏi, “Anh đi đâu?”
“Tại sao lại có Bắc Hà, Nam Hà chứ? Ngàn đời nay dân tộc ta là một, cớ sao lại chia rẽ như vậy?”, anh không trả lời câu hỏi của tôi, ánh mắt nhìn về nơi xa thẳm nào đó phía bên kia khu rừng.
Tôi mỉm cười, “Lại bắt đầu giảng đạo đấy hả; y như ông hồi xưa vậy! Nhiều lần rồi anh dọa bỏ đi tìm sự giác ngộ mà rốt cuộc có đi đâu!”
Anh quay lại nhìn tôi cười, “Ừ, mấy lần trước anh sợ, nhưng lần này anh quyết tâm! Anh đã mười sáu rồi, thế nào mai đây cũng bị bắt đi lính thôi. Hơn nữa, ở Phú Xuân bây giờ triều đình mục nát lắm rồi… Giang có biết là Trương Tần Cối đã giết hại nội hữu Trương Văn Hạnh rồi không[5]?”
Tôi nguýt dài, “À, cái chuyện thời sự hôm trước mấy lão lái buôn mà mình chở kể đó hả! Nhưng mình chỉ là dân đen hèn mọn, lại sống ở nơi xa xôi hẻo lánh thế này, quan tâm làm gì?”
Giọng anh trở nên nghiêm nghị, “Không xa xôi hẻo lánh như Giang nghĩ đâu! Ông từng nói, một khi bộ não đã mục nát thì tất cả các thứ khác cũng sẽ mục nát theo nhanh thôi. Cái cảnh yên tĩnh, hiền hòa ở huyện Vĩnh Linh này rồi sẽ không còn đâu. Vì vậy ngay bây giờ mình phải sẵn sàng, phải vươn lên, phải đi tìm sự giác ngộ!”
Bực mình, tôi quăng cái rìu xuống đất rống “Được rồi, ca cái bài đó miết mệt quá!”
Anh vỗ vai tôi cười to, “Thôi, Giang vô ngủ đi, để anh chẻ mấy bó củi còn lại cho.”
Hớn hở vì được nghỉ làm, tôi phóng vô nhà, không quên ngoái đầu lại nháy mắt đùa với anh, “Ừ, anh cố chẻ cho khỏe mà sáng mai có sức dậy sớm nhá!”
“Giang phải bước ra ngoài. Thế giới này rộng lớn lắm, đừng thờ ơ nhìn nó qua khung cửa sổ!”, đó là câu nói cuối cùng của anh trước khi anh tiếp tục đứng chẻ củi, còn tôi thì đứng im lặng nhìn bóng hình anh qua khung cửa sổ.
[1] Vùng phía Bắc sông Gianh thời Trịnh – Nguyễn Phân Tranh, còn được gọi là Đàng Ngoài
[2] Vùng phía Nam sông Gianh thời Trịnh – Nguyễn Phân Tranh, còn được gọi là Đàng Trong
[3] Năm 1655, Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần kéo quân đánh Trịnh, một số gia đình từ Đàng Ngoài theo Chúa vào Nam
[4] Khoảng thời gian từ 3 tới 5 giờ sáng
[5] Xảy ra vào năm 1765
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét